Trạng ngọt là ai? Trạng mè là biệt danh của ai?

Trạng Ngọt là ai? Đây là từ khóa được tìm kiếm nhiều nhất hôm nay, dưới đây BANDOVIETNAM.NET giải đáp Trạng Ngọt là ai? một cách chi tiết và chính xác. Cùng tham khảo ngay nhé!

Trạng Ngọt là biệt danh của Hứa Tam Tỉnh, một nhà văn và quan lại thời nhà Lê. Ông là người có tài văn chương xuất sắc, được coi là một trong những nhân vật nổi bật của văn học Việt Nam thế kỷ XV. Ngoài việc làm quan và tham gia các cuộc ngoại giao, ông còn viết nhiều tác phẩm văn học, đặc biệt là thơ ca, để lại dấu ấn đặc biệt trong lịch sử văn học Việt Nam.

Trạng Ngọt là ai?

Hứa Tam Tỉnh, hay còn được biết đến với biệt danh Trạng Ngọt, sinh năm 1481 và xuất thân từ xã Như Nguyệt, huyện Yên Phong (hiện nay thuộc xã Tam Giang, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh). Ông đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cấp đệ nhị danh (tức bảng nhãn) khoa Mậu Thìn, niên hiệu Đoan Khánh năm thứ 4 (1508) trong triều vua Lê Uy Mục.

Ông từng được cử đi làm sứ đến nhà Minh (Trung Quốc) vào năm 1516. Sau đó, ông trở về làm quan với nhà Mạc và lại được cử đi làm sứ đến nhà Minh một lần nữa. Về sau, ông được thăng chức lên Thượng thư Bộ Lại, được trao hàm Thiếu bảo và tước vị Đôn Giáo bá, trở thành một quan văn trụ sở.

Trạng mè là biệt danh của ai?

Trạng Me là biệt danh của Nguyễn Giản Thanh (1482-1552), một nhân vật lịch sử và là trạng nguyên khoa thi Đoan Khánh năm thứ tư (1508) đời vua Lê Uy Mục. Ông là con trai của tiến sĩ Nguyễn Giản Liêm, người làng Ông Mặc, huyện Đông Ngàn (nay là Từ Sơn), tỉnh Bắc Ninh.

Truyền thuyết cho rằng, Nguyễn Giản Thanh chỉ đậu bảng nhãn trong khi Hứa Tam Tỉnh đậu trạng nguyên. Tuy nhiên, trong buổi lễ ra mắt vua, Nguyễn Giản Thanh làm một bài phú dâng tặng vua và hoàng thái hậu (mẹ của vua), và vì khuôn mặt khôi ngô thanh tú của ông, hoàng thái hậu muốn cân nhắc ông lên làm trạng nguyên. Vua đánh giá bài phú của Nguyễn Giản Thanh cao hơn và trao danh hiệu trạng nguyên cho ông.

Vì ngôi làng ông sinh sống có tên là Me, nên Nguyễn Giản Thanh còn được gọi là Trạng Me.

'Trạng Me đè trạng Ngọt' và chuyện quyết đỗ đầu để lấy vợ xinh

"Trạng Me đè Trạng Ngọt" là câu chuyện được lưu truyền trong sử Việt nhiều thế kỷ qua, liên quan Nguyễn Giản Thanh (làng Me) và Hứa Tam Tỉnh (làng Ngọt).

Theo sách Giai thoại lịch sử Việt Nam, trấn Kinh Bắc có hai người học giỏi nổi tiếng là Nguyễn Giản Thanh (làng Me) và Hứa Tam Tỉnh (làng Ngọt).

Sau khi vượt qua kỳ thi Hương và Hội, cả hai thi Đình năm 1508 đời vua Lê Uy Mục. Các quan trường thi nhận thấy Hứa Tam Tỉnh có bài tốt hơn, dự kiến lấy đỗ trạng nguyên, Nguyễn Giản Thanh đỗ bảng nhãn, Nguyễn Hữu Nghiêm là thám hoa.

"Trạng nguyên mặt"

Ba người đỗ đầu vào yết kiến vua. Bà Kinh phi là mẹ nuôi của vua, nhìn thấy Nguyễn Giản Thanh có tướng mạo khôi ngô, tuấn tú, trong khi Hứa Tam Tỉnh dung mạo lại xấu xí. Bà chỉ vào Nguyễn Giản Thanh hỏi các quan trường thi: Người này chắc là trạng nguyên?

Quan chủ khảo không muốn phật ý mẹ vua nên lúng túng, chỉ cả vào Giản Thanh và Tam Tỉnh tâu rằng: "Hai người này tài học ngang nhau nên chúng thần chưa biết lấy ai đỗ trạng. Xin mẫu hậu và hoàng thượng phán xét".

Vua cũng nghe nói bài của Hứa Tam Tỉnh hơn Nguyễn Giản Thanh nhưng thấy mẹ đang nhìn Giản Thanh với ánh mắt quý mến, nên muốn chiều lòng mẹ. Ông ra thêm bài phú Phường thành xuân sắc (cảnh mùa xuân ở kinh đô) để xét tài cao thấp.

Câu chuyện "Trạng Me đè trạng Ngọt" qua tranh minh họa. Nguồn: Sỹ Hòa/Báo Bình Phước.

Trước bài thi quyết định, Nguyễn Giản Thanh nghĩ nếu làm bằng chữ Hán sẽ không thể cao xa, thâm thúy bằng Hứa Tam Tỉnh, chi bằng làm bằng chữ Nôm, hình ảnh bóng bẩy, câu văn yểu điệu sẽ khiến mẫu hậu hiểu. Nghĩ rồi, ông ứng khẩu đọc liền một mạch:

"Chợ hoa đầm ấm, phố ngọc tần vần / Trai bảnh bao đá cầu vén áo / Gái éo le rủ yếm khỏi quần / Khách Tràng An cưỡi ngựa xem hoa rợp đường tử mạch / Chàng công tử ngựa xe giương tán, sáng dặm thanh vân…".

Bà Kinh phi nghe đọc đến đâu hiểu đến đấy, nức nở khen hay. Ngược lại, bà không đánh giá cao bài phú bằng chữ Hán của Hứa Tam Tỉnh, vì không hiểu nhiều về văn tự. Vua đã muốn theo ý của mẹ, song còn hỏi thêm: "Trẫm nghe nói khanh người làng Ông Mạc, vậy có gần làng Phù Chấn quê trẫm không?".

Hai làng này cùng ở trấn Kinh Bắc nhưng không gần nhau. Tuy vậy, Nguyễn Giản Thanh vẫn lém lỉnh trả lời: "Tâu hoàng thượng, hai làng liền một cánh đồng". Đây là cách trả lời thông minh của Nguyễn Giản Thanh, bởi dù cách bao xa cũng liền mạch một cánh đồng.

Sau khi đàm đạo một hồi, lại thấy Giản Thanh người phủ Từ Sơn (quê ngoại của mình), vua truyền lấy Nguyễn Giản Thanh đỗ trạng nguyên, Hứa Tam Tỉnh lùi xuống hàng bảng nhãn.

Biết chuyện này, nho sĩ Kinh Bắc làm vè chê Giản Thanh là "mạo trạng nguyên", nghĩa là "trạng nguyên mặt", vì đẹp trai được đỗ trạng. Hứa Tam Tỉnh, tuy không đỗ trạng nguyên, vẫn được gọi là Trạng Ngọt (ông trạng làng Ngọt).

Trạng Ngọt quyết thi đỗ để lấy vợ đẹp

Hứa Tam Tỉnh (1481-?) quê xã Tam Giang, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh ngày nay. Xuất thân gia cảnh nghèo khó, từ nhỏ, ông đã nổi tiếng thông minh, nhanh nhẹn.

Hàng ngày, khi xong việc chăn trâu, cắt cỏ, ông đến trường làng nghe lỏm thầy đồ dạy chữ, mượn bạn bè sách vở tự học. Tối đến, cậu học trò nghèo đốt lá khô, bắt đom đóm làm đèn đọc sách, luyện chữ. Lớn lên, ông nổi tiếng tiếng văn hay, chữ đẹp, ứng đối giỏi.

Theo sách Đăng Khoa lục sưu giảng, một lần đi trên đường, Hứa Tam Tỉnh gặp đám rước quan Trấn thủ xứ Kinh Bắc. Thấy phía sau kiệu quan là võng tiểu thư xinh đẹp, Hứa Tam Tỉnh mê mẩn, bảo người phu cáng cho mình khiêng thay để được ngắm mỹ nhân.

Về nhà, Hứa Tam Tỉnh đòi mẹ phải đến hỏi tiểu thư làm vợ. Người mẹ sợ quá không dám đi, sau vì thương con liền đánh liều đến dinh quan.

Thấy chuyện lạ đời, quan Trấn thủ cười lớn nhưng rồi ông nghĩ biết đâu anh chàng nông phu kia nếu không phải kẻ cuồng vọng, tất là người khác thường. Quan liền nói với bà mẹ: "Nếu con trai bà muốn vậy thì gọi nó đến đây, ta xem học hành ra sao. Nếu quả là người tài, ta sẽ gả tiểu thư cho".

Bà mẹ vội vã trở về bảo con đến hầu chuyện quan. Lúc giáp mặt, quan Trấn thủ rất thất vọng khi thấy Hứa Tam Tỉnh da đen, người lùn, mặt mũi xấu xí, duy chỉ có con mắt là tinh anh.

Quan hỏi đến sách vở, kiến thức, Hứa Tam Tỉnh đối đáp rất trôi chảy, nên bảo chàng thanh niên ở lại trong dinh để ăn học thêm và giao hẹn nếu thi đỗ cao, nhất định gả con gái cho.

Hứa Tam Tỉnh dốc sức học hành, hơn một năm sau đỗ đầu thi Hương, tiếp đó vượt qua kỳ thi Hội. Quan y lời hẹn cũ, tổ chức đám cưới cho đôi trẻ. Tuy vậy, khó khăn vẫn chưa qua với Hứa Tam Tỉnh.

Sách Đăng Khoa lục sưu giảng cũng chép rằng: "Tới khi làm lễ hợp cẩn, tiểu thư vì đã biết Hứa Tam Tỉnh là anh chàng khiêng cáng ngày trước, lại thêm người đen lùn, xấu xí nên chưa ưng lắm, sai người hầu cầm tờ thiếp ra bảo rằng có một vế câu đối, nếu quan tân khoa đối được thì hãy xin làm lễ".

"Ốc lậu nguyệt xuyên hình như kê noãn, tam tam tứ tứ". Nghĩa là: Nhà thủng bóng trăng dọi xuống, hình như trứng gà, lốm đa lốm đốm.

Hứa Tam Tỉnh nghĩ mãi không sao đối được. Vừa bực mình, vừa thẹn, ông bỏ ra bờ sông. Tình cờ trông thấy bóng trăng soi trên mặt nước như muôn nghìn lớp sóng bạc dập dềnh, ông bỗng nảy tứ thơ, quay ngay về phòng đối rằng: "Giang trường phong lộng, thế tự long lân, điệp điệp trùng trùng". Nghĩa là: Sông dài gió lộng, thế như vảy rồng điệp điệp trùng trùng.

Tiểu thư xem xong thấy hay, mới đồng ý lấy ông làm chống. Hôm sau, tiểu thư lại đem câu đối ấy trình cha, quan bảo cứ khẩu khí này thì anh ta còn có thể đỗ trạng nguyên.

Sau khi đỗ đạt, Hứa Tam Tỉnh ra làm quan cho nhà Lê và nhà Mạc. Ông có hai lần đi sứ nhà Minh. Khi trở về, ông được thăng Thượng thư bộ Lại, hàm Thiếu bảo, tước Đôn Giáo bá.